Bên cạnh việc giảm thuế bảo vệ môi trường, Ủy ban Tài chính Ngân sách đề nghị Chính phủ cân nhắc thêm phương án giảm thuế nhập khẩu một cách phù hợp, đặc biệt là đối với mặt hàng xăng.
Chiều 23/3, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự thảo Nghị quyết về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn đến hết ngày 31/12/2022.
Về đề xuất các mức thuế cụ thể đối với xăng, dầu, mỡ nhờn: Chính phủ đề xuất mức thuế đối với từng mặt hàng quy định trong dự thảo Nghị quyết, bao gồm: Xăng, trừ etanol mức thuế 2.000đ/lít; Dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn, mỡ nhờn mức thuế 1.000đ/lít (giảm 50% so với các mức thuế hiện hành); Dầu hỏa mức thuế 300đ/lít (giảm 70% so với mức thuế hiện hành).
Đại diện cơ quan thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính Ngân sách Nguyễn Phú Cường cho biết, đa số ý kiến thống nhất với các mức giảm thuế theo đề xuất tại Tờ trình của Chính phủ. Nhiều ý kiến cũng cho rằng, Tờ trình chưa báo cáo rõ căn cứ tính toán mức độ giảm thuế đối với từng mặt hàng, theo các kịch bản điều hành tương ứng với mức độ biến động của giá dầu thô trên thế giới.
Cơ quan thẩm tra đề nghị Chính phủ giải trình rõ các căn cứ để xác định và đề xuất mức giảm đều 50% đối với tất cả các mặt hàng xăng dầu, trừ dầu hỏa và bổ sung số liệu so sánh giá xăng dầu với các nước trong khu vực để tránh buôn lậu, chuyển xăng dầu ra bên ngoài.
Một số ý kiến cho rằng, mức độ điều chỉnh giảm thuế BVMT cần được tính đến diễn biến giá dầu thô trên thị trường thế giới trong những ngày gần đây và không nên giảm đều cho tất cả các mặt hàng (trừ dầu hỏa) ở mức 50%.
Theo đó, đề nghị giảm đối với mặt hàng xăng xuống mức 2.500đ/lít, tương đương giảm gần 38% so với mức hiện hành; các mặt hàng dầu (dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn, mỡ nhờn) giảm 50%; dầu hỏa giảm 70% so với mức hiện hành.
Giảm thuế nhập khẩu để đa dạng hóa nguồn cung
Về chính sách thuế nhập khẩu, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính- Ngân sách cho biết, nhiều ý kiến cho rằng, thuế nhập khẩu cũng là một công cụ chính sách phù hợp, có thể được sử dụng để linh hoạt điều chỉnh giá bán xăng dầu trong nước. Việc điều chỉnh các mức thuế nhập khẩu MFN cụ thể trong phạm vi khung thuế suất và mức cam kết với WTO là thuộc thẩm quyền của Chính phủ, như vậy sẽ bảo đảm tối đa tính kịp thời và linh hoạt.
Trong giai đoạn trước đây khi Việt Nam phụ thuộc lớn vào xăng dầu nhập khẩu, Chính phủ đã thường xuyên sử dụng công cụ điều hành này để điều chỉnh giá bán trong nước. Vì vậy, bên cạnh việc giảm thuế BVMT theo thẩm quyền của UBTVQH, Chính phủ cũng cần cân nhắc thêm phương án giảm thuế nhập khẩu MFN một cách phù hợp, đặc biệt là đối với xăng, trên cơ sở đánh giá sản lượng sản xuất trong nước, kim ngạch nhập khẩu từ các nước hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt FTA và nhu cầu nhập khẩu từ các nước áp dụng thuế suất MFN.
“Việc giảm thuế MFN sẽ góp phần đa dạng hóa nguồn cung xăng nhập khẩu. Hiện tại dư địa điều chỉnh thuế MFN khá lớn”, ông Cường cho hay.
Cơ quan thẩm tra cũng đề nghị Chính phủ cân nhắc khả năng điều hành giảm thuế nhập khẩu MFN của mặt hàng xăng như một biện pháp bổ sung để can thiệp trong trường hợp giá dầu thô trên thị trường thế giới tiếp tục có biến động. Trên cơ sở đánh giá tình hình nhập khẩu từ các nước FTA (ASEAN, Hàn Quốc, Singapore), khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước và biến động về giá trên thị trường thế giới, Chính phủ tính toán mức độ giảm thuế nhập khẩu MFN một cách phù hợp để có thể điều chỉnh trong trường hợp cần thiết nhằm đa dạng hóa nguồn cung.
Cùng với đó, để góp phần giảm áp lực về nguồn cung xăng dầu trên thị trường trong nước, đề nghị Chính phủ tăng cường công tác quản lý, kịp thời kiểm tra và có biện pháp xử lý phù hợp, đảm bảo các doanh nghiệp đầu mối xăng dầu trong nước sử dụng đúng quy định đối với lượng xăng dầu dự trữ thương mại của doanh nghiệp.
“Trong điều hành giá xăng dầu, đề nghị Chính phủ nghiên cứu khả năng giảm chu kỳ điều hành giá để cập nhật hơn với biến động của thị trường thế giới. Về lâu dài, ngoài việc trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu bằng tiền, Chính phủ cần nghiên cứu khả năng bổ sung công cụ cho Quỹ bằng hiện vật (xăng dầu) để đa dạng hóa các công cụ có thể sử dụng tham gia điều tiết, hỗ trợ cho mục tiêu bình ổn thị trường xăng dầu trong nước”, cơ quan thẩm tra nêu.
Về thời gian,Thường trực Ủy ban Tài chính- Ngân sách nhất trí áp dụng Nghị quyết từ 1/4/2022 đến 31/12/2022 như đề xuất của Chính phủ.
Theo Tờ trình của Chính phủ, mức thuế BVMT đối với xăng, dầu, mỡ nhờn từ ngày Nghị quyết có hiệu lực thi hành đến hết ngày 31/12/2022 như sau: + Xăng: Giảm 2.000 đồng/lít, từ 4.000 đồng/lít xuống 2.000 đồng/lít. + Dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn: Giảm 1.000 đồng/lít, từ 2.000 đồng/lít xuống 1.000 đồng/lít. + Mỡ nhờn: Giảm 1.000 đồng/kg, từ 2.000 đồng/kg xuống 1.000 đồng/kg. + Dầu hỏa: Giảm 700 đồng/lít, từ 1.000 đồng/lít xuống mức sàn 300 đồng/lít. + Nhiên liệu bay: Giữ như mức hiện hành đang được giảm là 1.500 đồng/lít theo Nghị quyết số 13/2021/UBTVQH15 ngày 31/12/2021 của UBTVQH. - Mức thuế BVMT đối với xăng, dầu, mỡ nhờn từ ngày 01/01/2023 thực hiện theo quy định hiện hành tại Nghị quyết số 579/2018/UBTVQH14 của UBTVQH. |
TIN KHÁC
Một số thông tin về việc điều hành giá xăng dầu ngày 19/12/2024(19/12/2024)
Hà Nội lập vùng phát thải thấp ở 2 quận, cấm nhiều loại ô tô, xe máy lưu thông từ 2025(13/12/2024)
Hội nghị sơ kết Quy chế phối hợp đảm bảo an ninh, trật tự Nhà máy Lọc dầu Dung Quất năm 2024(12/12/2024)
Hà Nội tăng cường kiểm tra và giám sát hóa đơn điện tử trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu(11/12/2024)
PLC xin điều chỉnh giảm lợi nhuận và cổ tức tối thiểu năm 2024(11/12/2024)